1. Thiểu năng tuần
hoàn máu não là gì?
Thiểu năng tuần hoàn
não là tình trạng thiếu máu cung cấp cho não, bệnh có thể gặp ở nhiều lứa tuổi
phổ biến nhất ở người lao động trí óc và người cao tuổi. Nguyên nhân chính là
do xơ vữa các động mạch nuôi não, co cứng các cơ vùng cổ gáy cũng gây cản trở máu
lưu thông lên não….
Thiểu năng tuần hoàn não có thể diễn tiến lâu ngày, hoặc có
biến chứng nặng nề là gây nên bệnh cảnh đột qụy, nhồi máu não, xuất huyết
não, bệnh nhân có thể bị liệt nửa người hoặc tử vong do suy hô hấp, suy tuần
hoàn vì thân não bị nhồi máu, hoại tử cấp tính, phù não, nhún não.
2. Các nguyên nhân
gây thiểu năng tuần hoàn não
- Xơ
mỡ động mạch làm hẹp lòng ống để chứa máu và vận chuyển (nguyên nhân chính
chiếm 60 – 80%).
- Dị
dạng bẩm sinh hay u, sùi, bóc tách thành mạch làm hẹp lòng mạch.
- Các
cục máu đông gây cản trở dòng tuần hoàn máu.
- Thoái
hóa, vôi hóa đốt sống cổ làm đè ép vào mạch máu vốn đi chui trong lòng
chúng.
- Các
chèn ép từ bên ngoài vào thành động mạch…
3. Tỷ lệ mắc bệnh
Thường gặp nơi người trung niên và có tuổi, đặc biệt ở những
người lao động trí óc, nam mắc bệnh nhiều hơn nữ.
Tỷ lệ mắc bệnh thiểu năng tuần hoàn não rất cao, theo thống
kê khoảng 2/3 người đứng tuổi đều mắc chứng bệnh này. Trong các tai biến mạch
máu não nguyên nhân do thiểu năng tuần hoàn não chiếm 9-25% tổng số các tai biến
mạch máu não.
4. Các biểu hiện của
người mắc chứng thiểu năng tuần hoàn máu não
Dấu hiệu sớm mà bệnh nhân thường nhận thấy ban đầu là cảm
giác mơ hồ rằng mình có thay đổi từ thể chất đến tinh thần, người trông có vẻ
già hơn, dáng đi chậm chạp, kém hoạt bát, tính tình thay đổi dần, những điều
thích thú quan tâm trước đây, nay thấy nhạt nhẽo, hay nghiền ngẫm sự đời, ưa
nơi yên tĩnh.
Các triệu chứng của bệnh gợi ý lúc đầu thường xuất hiện
thoáng qua, sau tiến triển, hay tái phát. Các tổn thương có thể lan toả rải rác
hoặc có khi khu trú. Các triệu chứng đó là:
- Nhức đầu: Là triệu chứng hay gặp (chiếm 90%) đồng thời cũng là triệu chứng xuất hiện sớm nhất. Nhức đầu lan tỏa khắp đầu, có cảm giác căng nặng trong đầu, nhất là mỗi khi phải suy nghĩ nhiều. Đau sau gáy, vùng chẩm, đôi khi đau âm ỉ hoặc từng cơn lan lên nửa bên đầu. Người bệnh thường có thói quen xoa trán, vuốt hoặc gãi đầu, có người bóp trán, đấm nhẹ vào trán.
- Chóng mặt (gặp
87% trường hợp) hoặc có cảm giác hơi loạng choạng khi đi hoặc đứng, bập bềnh
như say sóng. Có người cảm thấy hoa mắt, tối sầm mặt lại nhất là khi chuyển tư
thế nằm sang tư thế đứng đột ngột. Điển hình là cơn chóng mặt, thấy mọi vật như
chao đảo quay chung quanh mình. Hiện tượng này xảy ra mỗi khi thay đổi tư thế
làm cho bệnh nhân phải nằm nhắm mắt nằm im, hễ cử động là chóng mặt, buồn nôn.
Các cơn chóng mặt kiểu này có thể chỉ ngắn vài phút, có khi dài đến vài ngày.
- Dị cảm: Là
những cảm giác không thật, bất thường do bệnh nhân tự cảm thấy. Ví dụ như cảm
giác tê tê, bì bì ở đầu ngón, cảm giác kiến bò. Có bệnh nhân xuất hiện cảm giác
đau dọc các xương sườn, đau ở cổ theo hai đường ở phía gáy, cảm giác lạnh ở dọc
xương sống. Có cảm giác như có tiếng ve kêu, cối xay lúa trong tai, tiếng này tồn
tại cả ban ngày lẫn ban đêm, có khi ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt, giấc ngủ và sức
khỏe người bệnh.
- Rối loạn về
giấc ngủ: Rất hay gặp và có đặc điểm là dai dẳng, khó chịu, khó chữa.
Biểu hiện rất đa dạng; một số người biểu hiện chính là mất ngủ, ở người khác lại
là rối loạn nhịp ngủ, lúc tối ngủ được, nửa đêm trằn trọc không ngủ, gần sáng lại
ngủ. Đêm không ngủ được, ngày lại ngủ gà ngủ gật.
- Rối loạn về sự
chú ý: Bệnh nhân rất khó truyền sự chú ý từ vật này sang vật khác.
Dần dần họ bị suy nhược cả cơ thể lẫn tinh thần. Những kích thích từ ngoài trước
đây thu nhận một cách dễ dàng và nhanh chóng thì nay chậm chạp và khó khăn, đòi
hỏi một sự tập trung chú ý lớn. Bệnh nhân trở nên đãng trí, đang nghĩ chuyện
này lại nhảy sang chuyện kia; đang nói về vấn đề này lại nhảy sang vấn đề khác
một cách bất ngờ. Khả năng tập trung tư tưởng rất kém.
- Rối loạn về cảm
xúc: Trong người luôn cảm thấy bồn chồn, không hoàn toàn làm chủ
được mình với những lý do rất vụn vặt chẳng đâu vào đâu, bệnh nhân cũng phản ứng
mạnh mẽ. Bản thân bệnh nhân cũng cảm thấy phản ứng như vậy là không đúng nhưng
không kìm chế được, dần dần trở thành người trái tính, trái nết. Ngoài ra, còn
hay mủi lòng, dễ tủi thân, than vãn, ca cẩm hết việc này đến việc khác.
- Thay đổi nhân
cách: Ở những người trước kia nông nổi, nóng tính nay trở nên hay
gây gổ, sinh sự. Người trước kia hiền lành an phận nay trở thành đa sầu đa cảm,
tự ti... Trước kia thận trọng đúng mức, nay trở nên tủn mủn, đa nghi, trước kia
căn cơ, tiết kiệm, nay trở nên hà tiện, bủn xỉn, chi li.
Trên đây là một số biểu hiện mà bệnh nhân và người thân có
thể nhận biết được. Khi có các triệu chứng trên, người bệnh nên đến bệnh viện
khám sớm để được làm các xét nghiệm cần thiết giúp chẩn đoán căn nguyên để điều
trị có hiệu quả.