(Dân trí) - Trái tim mạnh khỏe luôn đập hơn 100.000 lần/ngày, 10 triệu lần/năm, bình quân cả đời đập 3 tỷ lần. Nếu không hiểu sự thực của nhịp tim, chúng ta rất dễ bị lừa. Sau đây là những hiểu nhầm về nhịp tim.
Nhịp tim nhanh=áp lực lớn
Áp lực lớn sẽ tăng tuần suất tim nghỉ ngơi (nhịp tim khi nghỉ ngơi bình thường là 70-80 lần/phút), có lúc sẽ làm cho nhịp tim tăng đến hơn 100 lần/mỗi giờ, làm cho tim đập quá nhanh.
Tuy nhiên áp lực chỉ là một trong nhiều nguyên nhân đẩy nhanh nhịp tim. Hút thuốc, uống nhiều cà phê, mất nước, ngứa ngáy và thiếu máu cũng dẫn đến nhịp tim tăng nhanh.
Nhịp tim thất thường =bệnh tim mạch
Chỉ cần không kèm theo tức ngực, đau ngực, khó thở, thỉnh thoảng cảm thấy tim đập nhanh hoặc nhịp tim tăng nhanh là hiện tượng bình thường.
Giáo sư Gordon Masai , trường Y học Đại học Johns Hopkins, Mỹ cho biết, mặc dù đa phần nhịp tim không đầy đủ không cấu thành nguy hiểm, nhưng nếu gần đây phát hiện loạn nhịp tim và thường xuyên xảy ra thì nên lập tức đến bác sỹ.
Tim đập chậm= tim mạch yếu
Chúng ta thường cho rằng, tim đập quá chậm sẽ tăng nguy cơ tim ngừng đập. Sự thực lại hoàn toàn ngược lại. Nhịp tim giống như các bộ phận cơ bắp khác, cơ tim cũng phải thông qua tập luyện để tăng cường sức mạnh.
Cơ tim càng mạnh khỏe, hiệu suất của tim càng cao, số lần tim đập ít đi, có thể truyền máu cho toàn bộ cơ thể. Người có nhịp tim nghỉ ngơi dưới 60 lần (nhịp tim chậm) chắc chắn có trái tim rất mạnh khỏe. Tuy nhiên một số người già có nhịp tim chậm chạp có thể là do triệu chứng của bệnh tim gây ra.
Nhịp tim mạnh khỏe = 60-100 nhịp/phút
60-100 nhịp/phút là phạm vi nhịp tim bình thường của người trưởng thành. Nhưng phần lớn nghiên cứu cho biết, kể cả ở trong phạm vi bình thường, nếu nhịp tim khá cao cũng có liên quan rất lớn đến bệnh tim do thiếu máu, đột quỵ và đột tử.
Một nghiên cứu gần đây của Na Uy phát hiện, nhịp tim tăng 10 nhịp/ phút, tăng nguy cơ bệnh tim tương ứng với 10% và 18%.
Nhịp tim bình thường= huyết áp bình thường
Nhịp tim và huyết áp là hai việc khác nhau, giữa hai việc không chỉ đơn giản được đánh đồng với nhau. Người có nhịp tim nghỉ ngơi bình thường cũng có thể bị huyết áp cao. Một số người nhịp tim không bình thường nhưng huyết áp lại rất bình thường. Hoạt động cơ thể mệt mỏi sẽ làm cho nhịp tim đập nhanh nhưng thay đổi về huyết áp lại không lớn.
ST
Thursday, August 28, 2014
Wednesday, August 27, 2014
Bí quyết tăng cường trí não
Lối sống lành mạnh có thể giúp ngăn ngừa suy giảm nhận thức và tăng cường trí não.
- Thực hiện chế độ ăn lành mạnh, cân bằng và duy trì trọng lượng cơ thể hợp lý.
- Tập thể dục đều đặn, đặt mục tiêu tập luyện 30 phút mỗi ngày, ít nhất 5 ngày mỗi tuần.
- Tham gia các câu lạc bộ, chơi thể thao, làm tình nguyện hoặc thường xuyên gặp gỡ giao lưu với bạn bè.
- Thường xuyên đọc sách, chơi trò giải câu đố và các trò chơi tăng cường trí nhớ.
Tin liên quan:
Phòng và điều trị nhức mỏi mắt
Món quà cho sức khỏe
Tuesday, August 26, 2014
Uống Thuốc Thế Nào Cho Đúng Cách
Nước dùng để uống thuốc nhiều khi chưa được người bệnh chú ý, dẫn đến tình trạng uống thuốc với nước trà, uống thuốc với sữa, hoặc uống thuốc trong khi uống rượu…
Nước dùng để uống thuốc nhiều khi chưa được người bệnh chú ý, dẫn đến tình trạng uống thuốc với nước trà, uống thuốc với sữa, hoặc uống thuốc trong khi uống rượu… đã gây nên tình trạng tương tác giữa thuốc với các đồ uống trên, nhiều khi gây nguy hiểm cho người bệnh…Nước (ở đây là nước đun sôi để nguội, nước lọc tinh khiết) là đồ uống (dung môi) thích hợp nhất cho mọi loại thuốc vì không xảy ra tương kỵ hay tương tác nào khi hòa tan thuốc. Nước còn là phương tiện để dẫn thuốc (dạng viên) vào dạ dày - ruột, làm tăng độ tan rã của thuốc và hòa tan hoạt chất, giúp cho thuốc được hấp thu dễ dàng. Vì vậy, khi uống thuốc cần uống đủ nước (ít nhất từ 100 - 200ml cho mỗi lần uống thuốc) và uống trong tư thế người thẳng để thuốc có thể trôi dễ dàng xuống dạ dày, tránh đọng viên thuốc tại thực quản có thể gây kích ứng, loét thực quản, đặc biệt đối với người cao tuổi.
Trong quá trình dùng thuốc điều trị, cũng nên uống nhiều nước hàng ngày, có thể uống từ 1,5 - 2 lít nước/ngày để làm tăng tác dụng của thuốc (đối với các loại thuốc tẩy), tăng thải trừ và làm tan các dẫn xuất chuyển hóa gây hại của thuốc đối với cơ thể. Ví dụ như khi uống các sulfamid kháng khuẩn chẳng hạn… Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, khi uống các thuốc tẩy sán, tẩy giun như niclosamid, mebendazol thì lại cần uống ít nước hơn bình thường để duy trì nồng độ thuốc cao trong ruột, sẽ có hiệu quả cao hơn.
Không dùng nước quả, nước khoáng hoặc các loại nước ngọt đóng hộp có gas để uống thuốc vì các loại nước này có thể làm hỏng thuốc hoặc gây hấp thu quá nhanh, sẽ gây độc…
Không dùng sữa để uống thuốc vì trong thành phần của sữa có chứa canxi. Nhiều thuốc tạo phức với canxi của sữa sẽ không được hấp thu (ví dụ như kháng sinh tetracyclin, lincomycin, muối Fe...), do đó sẽ giảm hoặc không có tác dụng chữa bệnh.
Bên cạnh đó, cũng không dùng cà phê hay nước chè để uống thuốc. Hoạt chất cafein, tanin có trong cà phê, nước chè cũng sẽ làm tăng hoặc giảm tác dụng hoặc gây kết tủa một số thuốc điều trị… không những làm ảnh hưởng tới kết quả điều trị bệnh mà còn gây tai biến.
Trong quá trình dùng thuốc, nhiều người vẫn uống rượu, điều này vô cùng nguy hiểm. Rượu có rất nhiều ảnh hưởng đến thần kinh trung ương, hệ tim mạch, sự hấp thu của đường tiêu hóa. Người nghiện rượu còn bị giảm protein huyết tương, suy giảm chức năng gan, nhưng lại gây cảm ứng enzym chuyển hóa thuốc của gan, vì thế, rượu có tương tác với rất nhiều thuốc và các tương tác này đều là bất lợi.
Do đó, khi đã dùng thuốc thì không uống rượu. Với người nghiện rượu cần phải dùng thuốc, thầy thuốc cần kiểm tra chức năng gan, tình trạng tâm thần... để chọn thuốc và dùng liều lượng thích hợp, trong thời gian dùng thuốc cũng phải ngừng uống rượu.
Thursday, August 21, 2014
Phòng ngừa bệnh Ebola - Dịch bệnh nguy hiểm hiện nay
Người bệnh có khả năng lây bệnh chừng nào mà máu và dịch tiết của họ còn chứa vi rút. Đã phân lập được vi rút Ebola từ tinh dịch của một nam giới bị nhiễm trong phòng thí nghiệm 61 ngày sau khi bệnh khởi phát.
Cách phòng ngừa bệnh lây truyền Ebola chết người
Bệnh Ebola xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1976 tại hai ổ dịch đồng thời ở Nzara, Sudan và ở Yambuku, Cộng hòa dân chủ Congo. Ổ dịch thứ hai là ở một khu làng nằm gần con sông Ebola và được đặt theo tên con sông này.
Ebolavirus là 1 trong 3 giống vi rút thuộc họ Filoviridae (filovirus), cùng họ với Marburgvirus và Cuevavirus. Ebolavirus bao gồm 5 loài khác nhau:
- Bundibugyo ebolavirus (BDBV)
- Zaire ebolavirus (EBOV)
- Reston ebolavirus (RESTV)
- Sudan ebolavirus (SUDV)
- Taï Forest ebolavirus (TAFV).
BDBV, EBOV, và SUDV đều có liên quan với những ổ dịch bệnh Ebola lớn ở châu Phi, trong khi RESTV và TAFV thì không.
Loài RESTV, đã được phát hiện ở Philippines và Trung Quốc, có thể nhiễm cho người, nhưng cho đến nay chưa có báo cáo nào về ca bệnh hoặc tử vong ở người do loài này.
Lây truyền
Ebola xuất hiện trên người thông qua tiếp xúc gần gũi với máu, dịch tiết, phủ tạng hoặc các dịch cơ thể khác của động vật nhiễm bệnh. Ở châu Phi, đã ghi nhận tình trạng nhiễm bệnh xảy ra do vận chuyển tinh tinh, đười ươi, dơi ăn quả, khỉ, linh dương rừng và nhím ốm bệnh hoặc chết hoặc trong rừng nhiệt đới.
Sau đó Ebola lan truyền trong cộng đồng thông qua lây nhiễm từ người sang người, với nhiễm trùng là hậu quả của tiếp xúc trực tiếp (qua vết thương hở trên da hoặc niêm mạc) với máu, dịch tiết, phủ tạng hoặc các dịch cơ thể khác của người bệnh, và qua tiếp xúc gián tiếp với môi trường bị ô nhiễm những loại dịch này.
Những đám tang trong đó người tham dự có tiếp xúc trực tiếp với thi hài của người quá cố cũng đóng vai trò trong lây truyền Ebola.
Nam giới đã khỏi bệnh vẫn có thể lây truyền vi rút qua tinh dịch trong tới 7 tuần sau khi bình phục.
Các nhân viên y tế rất hay bị lây nhiễm trong khi điều trị cho bệnh nhân nghi ngờ hoặc chắc chắn bị Ebola. Lây nhiễm xảy ra thông qua tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân khi các biện pháp phòng ngừa không được thực hiện nghiêm ngặt.
Dấu hiệu và triệu chứng
Bệnh Ebola là một bệnh vi rút cấp tính nặng thường điển hình bởi sốt cao đột ngột, cực kỳ mệt mỏi, đau cơ, đau đầu và đau họng. Tiếp theo là nôn, tiêu chảy, suy chức năng thận và gan, và ở một số trường hợp xuất huyết nội và ngoại. Kết quả cận lâm sàng bao gồm giảm bạch cầu và tiểu cầu và tăng men gan.
Người bệnh có khả năng lây bệnh chừng nào mà máu và dịch tiết của họ còn chứa vi rút. Đã phân lập được vi rút Ebola từ tinh dịch của một nam giới bị nhiễm trong phòng thí nghiệm 61 ngày sau khi bệnh khởi phát.
Thời gian ủ bệnh, nghĩa là thời gian từ khi nhiễm vi rút đến khi xuất hiện triệu chứng, là từ 2 – 21 ngày.
Chẩn đoán
Các bệnh khác cần loại trừ trước khi đưa ra chẩn đoán bệnh Ebola bao gồm: sốt rét, thương hàn, lỵ trực trùng, tả, bệnh leptospira, dịch hạcplague, bệnh rickettsia, sốt hồi quy, viêm màng não, viêm gan và các bệnh sốt xuất huyết do vi rút khác.
Có thể chẩn đoán xác định nhiễm vi rút Ebola trong phòng thí nghiệm thông qua nhiều loại xét nghiệm như xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết enzym (ELISA); xét nghiệm phát hiện kháng nguyên; xét nghiệm trung hòa huyết thanh; xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase phiên mã ngược (RT-PCR); soi kính hiển vi điện tử; phân lập vi rút bằng nuôi cấy tế bào.
Các mẫu bệnh phẩm từ bệnh nhân có nguy cơ sinh học cực kỳ lớn; việc xét nghiệm cần được tiến hành trong điều kiện an toàn sinh học tối đa.
Vắc xin và điều trị
Hiện chưa có vắc xin nào cho bệnh Ebola. Nhiều vắc xin đang được thử nghiệm nhưng chưa có loại nào được sử dụng trên lâm sàng.
Những bệnh nhân nặng cần được chăm sóc hỗ trợ tích cực. Bệnh nhân thường bị mất nước và cần bù nước đường uống bằng các dung dịch chứa chất điện giải hoặc bằng dịch truyền tĩnh mạch.
Bệnh chưa có cách điều trị đặc hiệu. Một số phác đồ thuốc mới đang được đánh giá.
Vật chủ tự nhiên của vi rút Ebola
Ở châu Phi, dơi ăn quả, nhất là các loài thuộc giống Hypsignathus monstrosus, Epomops franqueti và Myonycteris torquata, được xem là vật chủ tự nhiên của vi rút Ebola. Hệ quả là phân bố địa lý của vi rút Ebola có thể trùng với phạm vi hoạt động của dơi.
Phòng chống
Giảm nguy cơ nhiễm Ebola trên người
Trong bối cảnh chưa có biện pháp điều trị hiệu quả và chưa có vắc xin cho người, việc nâng cao nhận thức về các yếu tố nguy cơ gây nhiễm Ebola và các biện pháp bảo vệ cá nhân là cách duy nhất để giảm nhiễm bệnh và tử vong ở người.
Ở các vùng dịch bệnh Ebola, thông điệp về giáo dục cộng đồng để giảm nguy cơ tập trung vào những yếu tố sau:
- Giảm nguy cơ lây bệnh từ động vật hoang dã sang người qua tiếp xúc với dơi ăn quả hoặc khỉ/linh trưởngr nhiễm bệnh và ăn thịt sống của chúng. Khi xử lý động vật cần mang găng và quần áo bảo hộ thích hợp. Các sản phẩm từ động vật (máu và thịt) cần được nấu kỹ trước khi ăn.
- Giảm nguy cơ lây bệnh từ người sang người trong cộng đồng do tiếp xúc trực tiếp hoặc tiếp xúc gần với người bệnh, nhất là với dịch cơ thể của người bệnh.
Cần tránh tiếp xúc cơ thể gần với bệnh nhân Ebola.
Nên mang găng tay và trang thiết bị bảo vệ cá nhân thích hợp khi chăm sóc cho người bệnh tại nhà.
Rửa tay thường xuyên sau khi đi thăm bệnh nhân ở bệnh viện, cũng như sau khi chăm sóc người bệnh tại nhà.
-Những cộng đồng bị Ebola cần thông tin cho người dân về tính chất của bệnh và về các biện pháp kiềm chế dịch bệnh, bao gồm việc mai tang người chết. Những người bị chết do Ebola cần được mai táng kịp thời và an toàn.
Các trang trại lợn ở châu Phi có thể đóng vai trò tăng qui mô dịch bệnh do sự có mặt của dơi ăn quả ở những trang trại này. Cần áp dụng các biện pháp an toàn sinh học thích hợp để hạn chế lây nhiễm.
Đối với RESTV, chú trọng việc giảm nguy cơ lây truyền bệnh từ lợn sang người do công tác chăn nuôi và giết mổ động vật không an toàn, cũng như việc tiêu thụ không an toàn các sản phẩm máu tươi, sữa sống hoặc thịt động vật. Cần mang găng và quần áo bảo hộ thích hợp khi xử lý động vật bệnh hoặc mô động vật và khi giết mổ động vật. Ở những vùng đã có báo cáo về RESTV trên lợn, tất cả các sản phẩm động vật (máu, thịt và sữa) đều phải được nấu chín trước khi ăn.
Phòng chống lây nhiễm tại cơ sở y tế
Lây truyền vi rút Ebola từ người sang người chủ yếu liên quan với tiếp xúc trực tiếp với máu và dịch cơ thể. Đã có báo cáo về lây nhiễm ở nhân viên y tế khi không có những biện pháp phòng chống thích hợp.
Không phải lúc nào cũng xác định được bệnh nhân Ebola sớm do các triệu chứng ban đầu thường không đặc hiệu. Do đó, các nhân viên y tế cần áp dụng các biện pháp phòng chống trước mọi bệnh nhân – bất kể chẩn đoán là gì - ở mọi lúc và mọi nơi.
Những biện pháp này bao gồm vệ sinh tay, vệ sinh đường hô hấp, sử dụng trang bị bảo hộ cá nhân (theo nguy cơ phát tán hoặc tiếp xúc khác với vật liệu nhiễm), thực hành tiêm chích an toàn và thực hành mai táng an toàn.
Ngoài những biện pháp cơ bản nêu trên, nhân viên y tế chăm sóc bệnh nhân nghi ngờ hoặc chắc chắn nhiễm vi rút Ebola cần áp dụng thêm những biện pháp phòng chống lây nhiễm khác để tránh mọi phơi nhiễm với máu và dịch cơ thể của bệnh nhân và tiếp xúc trực tiếp không có biện pháp bảo vệ với môi trường ô nhiễm. Khi tiếp xúc gần (trong vòng 1 mét) với bệnh nhân Ebola, nhân viên y tế cần mang trang bị bảo vệ mặt (tấm chắn hoặc khẩu trang y tế và kính bảo hộ), áo choàng dài sạch không cần vô trùng và găng (găng vô trùng đối với một số thủ thuật).
Nhân viên phòng thí nghiệm cũng có nguy cơ. Mẫu bệnh phẩm lấy từ động vật và người nghi nhiễm Ebola cần được vận chuyển bởi nhân viên được đào tạo và xử lý tại phòng thí nghiệm có trang bị thích hợp.
Theo WHO
Cách phòng ngừa bệnh lây truyền Ebola chết người
Bệnh Ebola xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1976 tại hai ổ dịch đồng thời ở Nzara, Sudan và ở Yambuku, Cộng hòa dân chủ Congo. Ổ dịch thứ hai là ở một khu làng nằm gần con sông Ebola và được đặt theo tên con sông này.
Ebolavirus là 1 trong 3 giống vi rút thuộc họ Filoviridae (filovirus), cùng họ với Marburgvirus và Cuevavirus. Ebolavirus bao gồm 5 loài khác nhau:
- Bundibugyo ebolavirus (BDBV)
- Zaire ebolavirus (EBOV)
- Reston ebolavirus (RESTV)
- Sudan ebolavirus (SUDV)
- Taï Forest ebolavirus (TAFV).
BDBV, EBOV, và SUDV đều có liên quan với những ổ dịch bệnh Ebola lớn ở châu Phi, trong khi RESTV và TAFV thì không.
Loài RESTV, đã được phát hiện ở Philippines và Trung Quốc, có thể nhiễm cho người, nhưng cho đến nay chưa có báo cáo nào về ca bệnh hoặc tử vong ở người do loài này.
Lây truyền
Ebola xuất hiện trên người thông qua tiếp xúc gần gũi với máu, dịch tiết, phủ tạng hoặc các dịch cơ thể khác của động vật nhiễm bệnh. Ở châu Phi, đã ghi nhận tình trạng nhiễm bệnh xảy ra do vận chuyển tinh tinh, đười ươi, dơi ăn quả, khỉ, linh dương rừng và nhím ốm bệnh hoặc chết hoặc trong rừng nhiệt đới.
Sau đó Ebola lan truyền trong cộng đồng thông qua lây nhiễm từ người sang người, với nhiễm trùng là hậu quả của tiếp xúc trực tiếp (qua vết thương hở trên da hoặc niêm mạc) với máu, dịch tiết, phủ tạng hoặc các dịch cơ thể khác của người bệnh, và qua tiếp xúc gián tiếp với môi trường bị ô nhiễm những loại dịch này.
Những đám tang trong đó người tham dự có tiếp xúc trực tiếp với thi hài của người quá cố cũng đóng vai trò trong lây truyền Ebola.
Nam giới đã khỏi bệnh vẫn có thể lây truyền vi rút qua tinh dịch trong tới 7 tuần sau khi bình phục.
Các nhân viên y tế rất hay bị lây nhiễm trong khi điều trị cho bệnh nhân nghi ngờ hoặc chắc chắn bị Ebola. Lây nhiễm xảy ra thông qua tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân khi các biện pháp phòng ngừa không được thực hiện nghiêm ngặt.
Dấu hiệu và triệu chứng
Bệnh Ebola là một bệnh vi rút cấp tính nặng thường điển hình bởi sốt cao đột ngột, cực kỳ mệt mỏi, đau cơ, đau đầu và đau họng. Tiếp theo là nôn, tiêu chảy, suy chức năng thận và gan, và ở một số trường hợp xuất huyết nội và ngoại. Kết quả cận lâm sàng bao gồm giảm bạch cầu và tiểu cầu và tăng men gan.
Người bệnh có khả năng lây bệnh chừng nào mà máu và dịch tiết của họ còn chứa vi rút. Đã phân lập được vi rút Ebola từ tinh dịch của một nam giới bị nhiễm trong phòng thí nghiệm 61 ngày sau khi bệnh khởi phát.
Thời gian ủ bệnh, nghĩa là thời gian từ khi nhiễm vi rút đến khi xuất hiện triệu chứng, là từ 2 – 21 ngày.
Chẩn đoán
Các bệnh khác cần loại trừ trước khi đưa ra chẩn đoán bệnh Ebola bao gồm: sốt rét, thương hàn, lỵ trực trùng, tả, bệnh leptospira, dịch hạcplague, bệnh rickettsia, sốt hồi quy, viêm màng não, viêm gan và các bệnh sốt xuất huyết do vi rút khác.
Có thể chẩn đoán xác định nhiễm vi rút Ebola trong phòng thí nghiệm thông qua nhiều loại xét nghiệm như xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết enzym (ELISA); xét nghiệm phát hiện kháng nguyên; xét nghiệm trung hòa huyết thanh; xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase phiên mã ngược (RT-PCR); soi kính hiển vi điện tử; phân lập vi rút bằng nuôi cấy tế bào.
Các mẫu bệnh phẩm từ bệnh nhân có nguy cơ sinh học cực kỳ lớn; việc xét nghiệm cần được tiến hành trong điều kiện an toàn sinh học tối đa.
Vắc xin và điều trị
Hiện chưa có vắc xin nào cho bệnh Ebola. Nhiều vắc xin đang được thử nghiệm nhưng chưa có loại nào được sử dụng trên lâm sàng.
Những bệnh nhân nặng cần được chăm sóc hỗ trợ tích cực. Bệnh nhân thường bị mất nước và cần bù nước đường uống bằng các dung dịch chứa chất điện giải hoặc bằng dịch truyền tĩnh mạch.
Bệnh chưa có cách điều trị đặc hiệu. Một số phác đồ thuốc mới đang được đánh giá.
Vật chủ tự nhiên của vi rút Ebola
Ở châu Phi, dơi ăn quả, nhất là các loài thuộc giống Hypsignathus monstrosus, Epomops franqueti và Myonycteris torquata, được xem là vật chủ tự nhiên của vi rút Ebola. Hệ quả là phân bố địa lý của vi rút Ebola có thể trùng với phạm vi hoạt động của dơi.
Phòng chống
Giảm nguy cơ nhiễm Ebola trên người
Trong bối cảnh chưa có biện pháp điều trị hiệu quả và chưa có vắc xin cho người, việc nâng cao nhận thức về các yếu tố nguy cơ gây nhiễm Ebola và các biện pháp bảo vệ cá nhân là cách duy nhất để giảm nhiễm bệnh và tử vong ở người.
Ở các vùng dịch bệnh Ebola, thông điệp về giáo dục cộng đồng để giảm nguy cơ tập trung vào những yếu tố sau:
- Giảm nguy cơ lây bệnh từ động vật hoang dã sang người qua tiếp xúc với dơi ăn quả hoặc khỉ/linh trưởngr nhiễm bệnh và ăn thịt sống của chúng. Khi xử lý động vật cần mang găng và quần áo bảo hộ thích hợp. Các sản phẩm từ động vật (máu và thịt) cần được nấu kỹ trước khi ăn.
- Giảm nguy cơ lây bệnh từ người sang người trong cộng đồng do tiếp xúc trực tiếp hoặc tiếp xúc gần với người bệnh, nhất là với dịch cơ thể của người bệnh.
Cần tránh tiếp xúc cơ thể gần với bệnh nhân Ebola.
Nên mang găng tay và trang thiết bị bảo vệ cá nhân thích hợp khi chăm sóc cho người bệnh tại nhà.
Rửa tay thường xuyên sau khi đi thăm bệnh nhân ở bệnh viện, cũng như sau khi chăm sóc người bệnh tại nhà.
-Những cộng đồng bị Ebola cần thông tin cho người dân về tính chất của bệnh và về các biện pháp kiềm chế dịch bệnh, bao gồm việc mai tang người chết. Những người bị chết do Ebola cần được mai táng kịp thời và an toàn.
Các trang trại lợn ở châu Phi có thể đóng vai trò tăng qui mô dịch bệnh do sự có mặt của dơi ăn quả ở những trang trại này. Cần áp dụng các biện pháp an toàn sinh học thích hợp để hạn chế lây nhiễm.
Đối với RESTV, chú trọng việc giảm nguy cơ lây truyền bệnh từ lợn sang người do công tác chăn nuôi và giết mổ động vật không an toàn, cũng như việc tiêu thụ không an toàn các sản phẩm máu tươi, sữa sống hoặc thịt động vật. Cần mang găng và quần áo bảo hộ thích hợp khi xử lý động vật bệnh hoặc mô động vật và khi giết mổ động vật. Ở những vùng đã có báo cáo về RESTV trên lợn, tất cả các sản phẩm động vật (máu, thịt và sữa) đều phải được nấu chín trước khi ăn.
Phòng chống lây nhiễm tại cơ sở y tế
Lây truyền vi rút Ebola từ người sang người chủ yếu liên quan với tiếp xúc trực tiếp với máu và dịch cơ thể. Đã có báo cáo về lây nhiễm ở nhân viên y tế khi không có những biện pháp phòng chống thích hợp.
Không phải lúc nào cũng xác định được bệnh nhân Ebola sớm do các triệu chứng ban đầu thường không đặc hiệu. Do đó, các nhân viên y tế cần áp dụng các biện pháp phòng chống trước mọi bệnh nhân – bất kể chẩn đoán là gì - ở mọi lúc và mọi nơi.
Những biện pháp này bao gồm vệ sinh tay, vệ sinh đường hô hấp, sử dụng trang bị bảo hộ cá nhân (theo nguy cơ phát tán hoặc tiếp xúc khác với vật liệu nhiễm), thực hành tiêm chích an toàn và thực hành mai táng an toàn.
Ngoài những biện pháp cơ bản nêu trên, nhân viên y tế chăm sóc bệnh nhân nghi ngờ hoặc chắc chắn nhiễm vi rút Ebola cần áp dụng thêm những biện pháp phòng chống lây nhiễm khác để tránh mọi phơi nhiễm với máu và dịch cơ thể của bệnh nhân và tiếp xúc trực tiếp không có biện pháp bảo vệ với môi trường ô nhiễm. Khi tiếp xúc gần (trong vòng 1 mét) với bệnh nhân Ebola, nhân viên y tế cần mang trang bị bảo vệ mặt (tấm chắn hoặc khẩu trang y tế và kính bảo hộ), áo choàng dài sạch không cần vô trùng và găng (găng vô trùng đối với một số thủ thuật).
Nhân viên phòng thí nghiệm cũng có nguy cơ. Mẫu bệnh phẩm lấy từ động vật và người nghi nhiễm Ebola cần được vận chuyển bởi nhân viên được đào tạo và xử lý tại phòng thí nghiệm có trang bị thích hợp.
Theo WHO
Wednesday, August 20, 2014
Mẹo hay giúp tỉnh táo dù ngủ ít
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, chỉ trải qua vài đêm ngủ 7 tiếng đồng hồ hoặc ít hơn cũng đủ khiến bộ não của chúng ta trở nên kém tỉnh táo và phản ứng chậm hơn đáng kể.
Tin liên quan:
Mất ngủ - Nguyên nhân và cách điều trị
Đau nửa đầu khổ lắm
Tuy nhiên, giáo sư tâm lý học Richard Wiseman thuộc Đại học Hertfordshire (Anh) đã hé lộ 2 bí quyết đơn giản, nhưng vô cùng hiệu quả giúp chúng ta tạm thời vẫn duy trì được sự tỉnh táo và tránh được một số tổn hại do ngủ ít gây ra. Đó là việc tuân thủ quy luật ngủ 90 phút và ngủ chợp mắt vào ban ngày.
Quy luật ngủ 90 phút
Trò chuyện với các nhà nghiên cứu về giấc ngủ, bạn sẽ sớm khám phá ra rằng, hầu hết họ đều sử dụng một mẹo ít biết để cảm thấy tỉnh táo vào ngày hôm sau. Bí quyết dựa vào kiến thức rằng, một chu kỳ giấc ngủ của chúng ta gồm 5 giai đoạn riêng rẽ, trong đó giai đoạn cuối cùng là ngủ động mắt nhanh (REM), gắn liền với các giấc mơ.
Mỗi chu kỳ ngủ này thường kéo dài gần 90 phút, tiếp sau là một khoảng thời gian dừng nghỉ ngắn, khi chúng ta tương đối tỉnh thức, trước khi một chu kỳ ngủ mới bắt đầu. Quá trình này thường lặp đi lặp lại trong tổng cộng 4 - 5 chu kỳ ngủ mỗi đêm. Nói một cách khác, nếu chúng ta ngủ hoàn toàn tự nhiên, không bị chuông đồng hồ báo thức hoặc các dạng nhiễu loạn giấc ngủ khác khuấy động, chúng ta thường sẽ tỉnh thức sau một khoảng thời gian là bội số của 90 phút.
Điều này đồng nghĩa, bạn sẽ cảm thấy tỉnh táo hơn khi thức giấc vào cuối của một chu kỳ ngủ 90 phút. Bởi vì lúc đó, bạn sẽ gần trạng thái tỉnh thức bình thường nhất.
Để tối đa hóa cơ hội có được điều này, bạn cần lưu ý đến thời điểm muốn thức dậy, sau đó tính ngược theo từng khoảng 90 phút để tìm ra thời gian gần với thời điểm đi ngủ mong muốn của bạn. Chẳng hạn như, nếu bạn muốn thức giấc vào lúc 8 giờ sáng và đi ngủ vào lúc khoảng gần nửa đêm, cách tính ngược như sau: 8h sáng > 6h30 > 5h00 > 3h30 > 2h > 0h30 >23h đêm. Trong ví dụ này, bạn nên đi ngủ vào lúc khoảng 11 giờ hoặc 12h30 đêm để có thể cảm thấy đặc biệt tỉnh táo khi thức dậy vào 8h sáng hôm sau.
Ngủ chợp mắt ban ngày
Hàng trăm thí nghiệm và nghiên cứu đã chỉ ra vô số lợi ích của việc chợp mắt vào ban ngày. Theo các chuyên gia, việc để cái đầu của bạn nghỉ ngơi dù chỉ vài phút mỗi ngày cũng sẽ giúp bạn có trí nhớ tốt hơn, tỉnh táo hơn, nâng cao thời gian phản ứng, tăng năng suất lao động và góp phần duy trì tình trạng sức khỏe tốt cho bạn.
Điều quan trọng là phải biết thời điểm phù hợp nhất để chợp mắt ban ngày. Các nhịp sinh học tự nhiên trong cơ thể ảnh hưởng tới mức năng lượng của chúng ta trong ngày, nên thời điểm tốt nhất để chợp mắt là khi mức năng lượng sụt giảm. Thời điểm này phụ thuộc vào lúc bạn thức dậy vào buổi sáng.
Dưới đây là một bảng đơn giản giúp hướng dẫn cho bạn:
Đừng lo lắng nếu bạn không thể chìm vào giấc ngủ vào thời điểm chợp mắt lý tưởng. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, chỉ cần nằm xuống với ý định sẽ chợp mắt cũng đủ khiến huyết áp của bạn giảm xuống một cách có lợi.
Nếu bạn muốn cực kỳ tỉnh táo ngay sau một giấc chợp mắt ngắn ngủi, hãy uống một tách cà phê hoặc đồ uống có caffein khác ngay trước khi ngủ. Caffein sẽ bắt đầu phát huy tác dụng khoảng 25 phút sau khi uống, đúng vào lúc bạn bắt đầu tỉnh thức.
Tin liên quan:
Mất ngủ - Nguyên nhân và cách điều trị
Đau nửa đầu khổ lắm
Tuy nhiên, giáo sư tâm lý học Richard Wiseman thuộc Đại học Hertfordshire (Anh) đã hé lộ 2 bí quyết đơn giản, nhưng vô cùng hiệu quả giúp chúng ta tạm thời vẫn duy trì được sự tỉnh táo và tránh được một số tổn hại do ngủ ít gây ra. Đó là việc tuân thủ quy luật ngủ 90 phút và ngủ chợp mắt vào ban ngày.
Quy luật ngủ 90 phút
Trò chuyện với các nhà nghiên cứu về giấc ngủ, bạn sẽ sớm khám phá ra rằng, hầu hết họ đều sử dụng một mẹo ít biết để cảm thấy tỉnh táo vào ngày hôm sau. Bí quyết dựa vào kiến thức rằng, một chu kỳ giấc ngủ của chúng ta gồm 5 giai đoạn riêng rẽ, trong đó giai đoạn cuối cùng là ngủ động mắt nhanh (REM), gắn liền với các giấc mơ.
Mỗi chu kỳ ngủ này thường kéo dài gần 90 phút, tiếp sau là một khoảng thời gian dừng nghỉ ngắn, khi chúng ta tương đối tỉnh thức, trước khi một chu kỳ ngủ mới bắt đầu. Quá trình này thường lặp đi lặp lại trong tổng cộng 4 - 5 chu kỳ ngủ mỗi đêm. Nói một cách khác, nếu chúng ta ngủ hoàn toàn tự nhiên, không bị chuông đồng hồ báo thức hoặc các dạng nhiễu loạn giấc ngủ khác khuấy động, chúng ta thường sẽ tỉnh thức sau một khoảng thời gian là bội số của 90 phút.
Điều này đồng nghĩa, bạn sẽ cảm thấy tỉnh táo hơn khi thức giấc vào cuối của một chu kỳ ngủ 90 phút. Bởi vì lúc đó, bạn sẽ gần trạng thái tỉnh thức bình thường nhất.
Để tối đa hóa cơ hội có được điều này, bạn cần lưu ý đến thời điểm muốn thức dậy, sau đó tính ngược theo từng khoảng 90 phút để tìm ra thời gian gần với thời điểm đi ngủ mong muốn của bạn. Chẳng hạn như, nếu bạn muốn thức giấc vào lúc 8 giờ sáng và đi ngủ vào lúc khoảng gần nửa đêm, cách tính ngược như sau: 8h sáng > 6h30 > 5h00 > 3h30 > 2h > 0h30 >23h đêm. Trong ví dụ này, bạn nên đi ngủ vào lúc khoảng 11 giờ hoặc 12h30 đêm để có thể cảm thấy đặc biệt tỉnh táo khi thức dậy vào 8h sáng hôm sau.
Ngủ chợp mắt ban ngày
Hàng trăm thí nghiệm và nghiên cứu đã chỉ ra vô số lợi ích của việc chợp mắt vào ban ngày. Theo các chuyên gia, việc để cái đầu của bạn nghỉ ngơi dù chỉ vài phút mỗi ngày cũng sẽ giúp bạn có trí nhớ tốt hơn, tỉnh táo hơn, nâng cao thời gian phản ứng, tăng năng suất lao động và góp phần duy trì tình trạng sức khỏe tốt cho bạn.
Điều quan trọng là phải biết thời điểm phù hợp nhất để chợp mắt ban ngày. Các nhịp sinh học tự nhiên trong cơ thể ảnh hưởng tới mức năng lượng của chúng ta trong ngày, nên thời điểm tốt nhất để chợp mắt là khi mức năng lượng sụt giảm. Thời điểm này phụ thuộc vào lúc bạn thức dậy vào buổi sáng.
Dưới đây là một bảng đơn giản giúp hướng dẫn cho bạn:
Thời gian thức dậy buổi sáng | Thời gian hoàn hảo để chợp mắt |
6h | 13h30 |
6h30 | 13h45 |
7h | 14h00 |
7h30 | 14h15 |
8h | 14h30 |
8h30 | 14h45 |
9h | 15h |
Đừng lo lắng nếu bạn không thể chìm vào giấc ngủ vào thời điểm chợp mắt lý tưởng. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, chỉ cần nằm xuống với ý định sẽ chợp mắt cũng đủ khiến huyết áp của bạn giảm xuống một cách có lợi.
Nếu bạn muốn cực kỳ tỉnh táo ngay sau một giấc chợp mắt ngắn ngủi, hãy uống một tách cà phê hoặc đồ uống có caffein khác ngay trước khi ngủ. Caffein sẽ bắt đầu phát huy tác dụng khoảng 25 phút sau khi uống, đúng vào lúc bạn bắt đầu tỉnh thức.
Tuesday, August 19, 2014
Cách bổ sung DHA khi mang thai và cho bú.
Việc bổ sung DHA bằng viên uống là lựa chọn tối ưu cho bà mẹ mang thai, cho con bú.
Bài viết liên quan:
Sự cần thiết của vitamin nhóm B với cơ thể
10 thực phẩm giúp bạn thông minh hơn
Tầm quan trọng của Vitamin B2 với bà bầu
Với các quốc gia đang phát triển, điển hình như Việt Nam chúng ta, khẩu phần ăn của các bà mẹ trong giai đoạn mang thai, cho con bú và trẻ nhỏ thường không cung cấp đủ DHA cho nhu cầu phát triển trí não của thai nhi và trẻ nhỏ.
Một số loại sữa có chứa DHA thường là với hàm lượng thấp cũng không cung cấp đủ DHA vì vậy việc bổ sung DHA bằng viên uống là lựa chọn tối ưu cho bà mẹ mang thai, cho con bú và trẻ nhỏ.
DHA là thành phần chính tham gia cấu tạo não, nó giữ vai trò cấu trúc quan trọng trong nhiều bộ phận của não như hệ thần kinh trung ương, vỏ não cũng như ở võng mạc mắt. DHA giúp truyền dẫn tín hiệu giữa các tế bào thần kinh tốt hơn và nó cũng là thành phần thiết yếu trong các tế bào tiếp nhận hình ảnh của võng mạc mắt. Cung cấp đầy đủ DHA giúp não xử lý thông tin tốt hơn, giúp trẻ thông minh hơn, học tốt hơn và tạo nền tảng cho thành công trong tương lai. Cung cấp đẩy đủ DHA còn giúp tăng thị lực phòng ngừa dị tật mắt.
Nghiên cứu cho thấy trẻ 12 tháng tuổi được bổ sung đầy đủ DHA có thị lực tốt hơn nhìn rõ hơn so với trẻ cùng tuổi không được bổ sung DHA. Lợi ích khác nữa của DHA trong giai đoạn đầu đời của bé là giúp bé tăng khả năng miễn dịch, giảm dị ứng và ít mắc vấn đề rối loạn hành vi và cảm xúc. Nhờ vậy trẻ có khả năng ghi nhớ, học hỏi và vận động tốt hơn. Nghiên cứu trên nhóm trẻ từ 10-12 tuổi cho thấy trẻ em được cung cấp đầy đủ DHA từ sớm có chỉ số thông minh IQ cao hơn 8,3 điểm so với trẻ thiếu DHA.
Trẻ em, cần được bổ sung DHA ngay từ khi còn trong bụng mẹ và những năm đầu đời vì đây là giai đoạn não cần được cung cấp lượng DHA cao nhất.
Thiếu hụt DHA trong chế độ ăn là tình trạng phổ biến tại nhiều quốc gia đặc biệt tại các nước châu Á và các nước đang phát triển. Nguyên nhân là do thói quen ăn uống thiếu các thực phẩm giàu DHA hoặc do chế độ dinh dưỡng kém. Thực phẩm giàu DHA như cá hồi, cá mòi… thường không được đưa vào thực đơn của bà mẹ mang thai, cho con bú hay trẻ nhỏ. Tình hình này cũng rất đúng với thực tế ở Việt Nam khi chúng ta không có thói quen cho trẻ ăn cá biển sớm và thường xuyên.
Cách bổ sung DHA khi mang thai và cho bú - 1Cách bổ sung DHA khi mang thai và cho bú - 2
Các mẹ nên bổ sung DHA từ khi mang thai và thời gian cho con bú
Vì vậy để trẻ phát triển tốt trí não và thị giác, các bà mẹ mang thai và cho con bú cần bổ sung DHA ngay từ khi mang thai và trong suốt thời gian cho bú.
Một sản phẩm của Dược phẩm Trang Ly là Traly Omamum giúp chúng ta được cung cấp đầy đủ DHA theo nhu cầu của bà mẹ mang thai và cho con bú. Liều trung bình, mỗi ngày 2 viên. Nên sử dụng Traly Omamum trong suốt thời gian mang thai và cho con bú.
Traly Omamum là sản phẩm của công ty TNHH Thương mại Dược phẩm Trang Ly. Sản phẩm có bán tại các nhà thuốc lớn trên toàn quốc.
Bạn có thể tìm hiểu thêm thông tin về sản phẩm tại các nhà thuốc lớn hoặc theo số điện thoại nhà phân phối sản phẩm.
Hotline :043 773 8337
website: http://tranglypharma.com/san-pham-danh-cho-phu-nu-mang-thai-va-cho-con-bu/traly-omamum-hop-3-vi-x-10-vien
Bài viết liên quan:
Sự cần thiết của vitamin nhóm B với cơ thể
10 thực phẩm giúp bạn thông minh hơn
Tầm quan trọng của Vitamin B2 với bà bầu
Với các quốc gia đang phát triển, điển hình như Việt Nam chúng ta, khẩu phần ăn của các bà mẹ trong giai đoạn mang thai, cho con bú và trẻ nhỏ thường không cung cấp đủ DHA cho nhu cầu phát triển trí não của thai nhi và trẻ nhỏ.
Một số loại sữa có chứa DHA thường là với hàm lượng thấp cũng không cung cấp đủ DHA vì vậy việc bổ sung DHA bằng viên uống là lựa chọn tối ưu cho bà mẹ mang thai, cho con bú và trẻ nhỏ.
DHA là thành phần chính tham gia cấu tạo não, nó giữ vai trò cấu trúc quan trọng trong nhiều bộ phận của não như hệ thần kinh trung ương, vỏ não cũng như ở võng mạc mắt. DHA giúp truyền dẫn tín hiệu giữa các tế bào thần kinh tốt hơn và nó cũng là thành phần thiết yếu trong các tế bào tiếp nhận hình ảnh của võng mạc mắt. Cung cấp đầy đủ DHA giúp não xử lý thông tin tốt hơn, giúp trẻ thông minh hơn, học tốt hơn và tạo nền tảng cho thành công trong tương lai. Cung cấp đẩy đủ DHA còn giúp tăng thị lực phòng ngừa dị tật mắt.
Nghiên cứu cho thấy trẻ 12 tháng tuổi được bổ sung đầy đủ DHA có thị lực tốt hơn nhìn rõ hơn so với trẻ cùng tuổi không được bổ sung DHA. Lợi ích khác nữa của DHA trong giai đoạn đầu đời của bé là giúp bé tăng khả năng miễn dịch, giảm dị ứng và ít mắc vấn đề rối loạn hành vi và cảm xúc. Nhờ vậy trẻ có khả năng ghi nhớ, học hỏi và vận động tốt hơn. Nghiên cứu trên nhóm trẻ từ 10-12 tuổi cho thấy trẻ em được cung cấp đầy đủ DHA từ sớm có chỉ số thông minh IQ cao hơn 8,3 điểm so với trẻ thiếu DHA.
Trẻ em, cần được bổ sung DHA ngay từ khi còn trong bụng mẹ và những năm đầu đời vì đây là giai đoạn não cần được cung cấp lượng DHA cao nhất.
Thiếu hụt DHA trong chế độ ăn là tình trạng phổ biến tại nhiều quốc gia đặc biệt tại các nước châu Á và các nước đang phát triển. Nguyên nhân là do thói quen ăn uống thiếu các thực phẩm giàu DHA hoặc do chế độ dinh dưỡng kém. Thực phẩm giàu DHA như cá hồi, cá mòi… thường không được đưa vào thực đơn của bà mẹ mang thai, cho con bú hay trẻ nhỏ. Tình hình này cũng rất đúng với thực tế ở Việt Nam khi chúng ta không có thói quen cho trẻ ăn cá biển sớm và thường xuyên.
Cách bổ sung DHA khi mang thai và cho bú - 1Cách bổ sung DHA khi mang thai và cho bú - 2
Các mẹ nên bổ sung DHA từ khi mang thai và thời gian cho con bú
Vì vậy để trẻ phát triển tốt trí não và thị giác, các bà mẹ mang thai và cho con bú cần bổ sung DHA ngay từ khi mang thai và trong suốt thời gian cho bú.
Một sản phẩm của Dược phẩm Trang Ly là Traly Omamum giúp chúng ta được cung cấp đầy đủ DHA theo nhu cầu của bà mẹ mang thai và cho con bú. Liều trung bình, mỗi ngày 2 viên. Nên sử dụng Traly Omamum trong suốt thời gian mang thai và cho con bú.
Traly Omamum là sản phẩm của công ty TNHH Thương mại Dược phẩm Trang Ly. Sản phẩm có bán tại các nhà thuốc lớn trên toàn quốc.
Bạn có thể tìm hiểu thêm thông tin về sản phẩm tại các nhà thuốc lớn hoặc theo số điện thoại nhà phân phối sản phẩm.
Hotline :043 773 8337
website: http://tranglypharma.com/san-pham-danh-cho-phu-nu-mang-thai-va-cho-con-bu/traly-omamum-hop-3-vi-x-10-vien
Sự cần thiết của vitamin nhóm B với cơ thể
Vitamin nhóm B là nhóm vitamin có thể hòa tan trong nước đóng
vai trò rất quan trọng đối với quá trình trao đổi chất của các tế
bào trong cơ thể và cung cấp năng lượng cần thiết cho cơ thể. Vitamin
nhóm B bao gồm các loại Vitamin B1, Vitamin B2, Vitamin B3, Vitamin B5, Vitamin
B6, Vitamin B7, Vitamin B9, Vitamin B12.Nếu thiếu các chất này, cơ thể sẽ bị
suy yếu, khiến phát sinh một số bệnh tật nguy hiểm.
Vitamin B1(Thiamine):
giúp cơ thể chuyển hóa carbonhydrat khi ăn vào thành năng lượng, đồng thời
làm cân bằng hệ thống thần kinh, tốt cho hoạt động của tim và gan. B1
có nhiều trong thịt lợn, lòng đỏ trứng,
măng tây, ngũ cốc tổng hợp, men bia. Thiếu hụt vitamin B1 gây bệnh tê phù
tay chân (còn gọi là bệnh béribéri) nặng có thể dẫn đến teo cơ, bệnh xuất hiện
khi cơ thể thiếu vitamin B1 nghiêm trọng, kéo dài trong khoảng 3 tháng.
Vitamin B2(Riboflavin):
tham gia chuyển hóa bột, chất béo, chất đạm thông qua các loại men, giúp cơ thể
tự cân bằng dinh dưỡng; tham gia phản ứng hô hấp chuyển hóa của tế bào. Nó cũng
ảnh hưởng đến khả năng cảm thụ ánh sáng của mắt, nhất là khả năng cảm thụ màu.
Thiếu riboflavin sẽ dẫn đến
sần rám da, chốc mép, khô nứt môi, viêm lưỡi và viêm miệng. Có thể có những triệu chứng
về mắt
như ngứa
và rát bỏng, sợ
ánh sáng và rối
loạn phân bố mạch
ở giác mạc. Một
số triệu
chứng này thực ra là biểu hiện
của thiếu
các vitamin khác, như
pyridoxin hoặc
acid nicotinic do các vitamin này không thực
hiện được đúng chức
năng của chúng khi thiếu riboflavin. Thiếu riboflavin có thể xảy
ra cùng với
thiếu các vitamin B, ví dụ như
ở bệnh
pellagra.
Vitamin B3 (Niacin hay vitamin PP):
Niacin là dưỡng chất rất cần cho cơ thể để hình thành các loại enzyme quan trọng
và chuyển hóa năng lượng từ nguồn thức ăn đầu vào. Do cơ thể không thể tích trữ
loại vitamin này nên dễ dẫn đến tình trạng thiếu vitamin PP, gây chán ăn, suy
nhược cơ thể, dễ bị kích động, viêm lưỡi miệng, chân tay; nặng có thể gây bệnh
pellagra, làm xạm đen hoặc tróc vảy da khi phơi ra ngoài nắng.
Vitamin B5 (acid Pantathoenic):
Acid pantothenic là một phần của phân tử coenzyme A đóng một vai trò quan trọng
trong quá trình giải phóng năng lượng từ thực phẩm (chất béo, chất bột, protein
và rượu). Acid patothenic cũng có vai trò rất quan trọng trong chức năng của
tuyến thượng thận và trong sự tạo thành các kháng thể; tạo điều kiện thuận lợi
cho quá trình phát triển và độ bền của da cũng như niêm mạc, quá trình phát triển
chức năng của hệ thần kinh trung ương. Thiếu vitamin B5 gây mỏi mệt, nhức đầu,
chóng mặt, yếu cơ và rối loạn ở dạ dày tá tràng.
Vitamin B6 (Pyridoxine):
tham gia quá trình chuyển hóa protein trong cơ thể và là hợp chất quan trọng
cho việc tạo huyết sắc tố-chất tạo nên màu đỏ của tế bào hồng cầu). Sự thiếu hụt
vitamin B6 có thể gây ra nhiều triệu chứng: mệt mỏi, mất ngủ, khó chịu, rối loạn
tâm thần, môi nứt nẻ, da khô, rụng tóc.
Vitamin B7 (Biotin):
Biotin là dưỡng chất rất cần cho cơ thể để làm tan mỡ, có nhiều trong trứng, sữa,
sản phẩm sữa, ngũ cốc, cá, rau củ quả. Cơ thể cần một lượng nhỏ biotin và thường
do khuẩn trong ruột sản xuất ra nên không cần phải bổ sung thêm.
Vitamin B9 (acid Folic):
tham gia vào quá trình tổng hợp AND và ARN, có nhiệm vụ tạo tế bào máu và giúp
tế bào máu phát triển, giúp phụ nữ mang thai giảm thiểu bệnh khuyết tật ống thần
kinh, để trẻ phát triển cột sống và não hoàn hảo. Thiếu acid folic gây ra thiếu
máu nguyên hồng cầu khổng lồ.
Vitamin B12 (Cyanocobalamin):
Vitamin B12 cần thiết cho tất cả các mô có tốc độ sinh trưởng tế bào mạnh (mô tạo
máu, ruột non, tử cung...). Vitamin B12 tạo DNA vật liệu di truyền trong tế
bào, duy trì tình trạng khỏe mạnh của tế bào thần kinh và hồng cầu, giữ vai trò
then chốt trong phát triển hồng cầu. Thiếu Vitamin B12 gây bệnh thiếu máu có hồng
cầu khổng lồ, chán ăn, mệt mỏi, sụt cân. Đôi khi có giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu,
kéo dài thời gian chảy máu và các dấu hiệu thần kinh khác như có cảm giác kiến
bò, giảm xúc giác.
Vì vitamin B không được tích trữ trong cơ thể nên mỗi ngày chúng
ta đều phải hấp thu một lượng vitamin B nhất định, nếu không cơ thể
sẽ bị thiếu vitamin nhóm này. Thường thì ít có hiện tượng thiếu đơn độc một
vitamin trừ nguyên nhân thiếu do khuyết tật di truyền hoặc do tương tác thuốc,
vì vậy việc bổ sung vitamin dưới dạng hỗn hợp có hiệu quả hơn dùng các chất đơn
lẻ.
Hiện nay Công ty TNHH Thương mại
dược phẩm Trang Ly đã đưa ra sản phẩm TRALY6B là sự kết hợp của sáu loại
vitamin B; giúp bồi bổ sức khỏe, kích thích tiêu hóa, ăn ngon miệng, tăng cường
sức đề kháng, nâng cao miễn dịch cho cơ thể, nâng cao thể lực và trí lực. Thích
hợp với người bị suy nhược cơ thể, thể chất yếu, chán ăn, mệt mỏi, gầy mòn, thiếu
máu do thiếu vitamin B12, thời kỳ dưỡng bệnh, sau phẫu thuật hoặc trong giai đoạn
hồi phục sức khỏe sau phẫu thuật; người bị thiểu năng tuần hoàn não và các biểu
hiện chức năng: chóng mặt, nhức đầu, giảm trí nhớ, rối loạn vận động.
Thành phần:
- Vitamin B1 (Thiamin mononitrate ): 4
mg
- Vitamin B2 ( Riboflavin ): 2 mg
- Vitamin B5 ( Calci pantothenat): 5
mg
- Vitamin B6 ( Pyridoxin hydroclorid ):
2 mg
- Vitamin B9 (Acid Folic ): 100 mcg
- Vitamin B12 ( Cyanocobalamin ): 50 mcg
Subscribe to:
Posts (Atom)